CÂU ĐẰNG (Uncaria spp.)
Tuệ Tĩnh Đường Hải Đức 8 Năm trước
Mô tả
Cây nhỡ, leo. Cành non có thiết diện vuông góc, có rãnh dọc, khi già cứng có màu xám đen hay nâu đen. Lá có cuống ngắn, mọc đối, có lá kèm; ở kẽ lá có gai nhọn mọc cong xuống, cứ một mấu 2 gai lại xen một mấu 1 gai. Hoa tụ họp thành hình cầu mọc đơn độc hoặc thành chùm ở kẽ lá và đầu cành; lá đài 5, ống ngắn; cánh hoa 5, ống tràng dài; nhị 5 đính ở họng tràng. Quả nang dài và dẹt chứa nhiều hạt có cánh.
Mùa hoa quả: tháng 3 – 7.
Cây nhỡ, leo. Cành non có thiết diện vuông góc, có rãnh dọc, khi già cứng có màu xám đen hay nâu đen. Lá có cuống ngắn, mọc đối, có lá kèm; ở kẽ lá có gai nhọn mọc cong xuống, cứ một mấu 2 gai lại xen một mấu 1 gai. Hoa tụ họp thành hình cầu mọc đơn độc hoặc thành chùm ở kẽ lá và đầu cành; lá đài 5, ống ngắn; cánh hoa 5, ống tràng dài; nhị 5 đính ở họng tràng. Quả nang dài và dẹt chứa nhiều hạt có cánh.
Mùa hoa quả: tháng 3 – 7.
Tác dụng dược lý
1.Tác dụng hạ huyết áp: Nước sắc câu đằng trên thỏ gây mê với liều 2 – 3g/kg tiêm tĩnh mạch, trên chó gây mê với liều 0,5g/kg tiêm tĩnh mạch và trên chuột cống trắng bằng đường uống với liều 5,0g/kg đều có tác dụng hạ huyết áp rõ rệt. Theo tập quán kinh nghiệm nhân dân thường dùng móc câu đằng làm thuốc, nhưng trên thực nghệm chứng tỏ tác dụng hạ huyết pá của cành và thân câu đằng không khác gì tác dụng của móc câu đằng. Trên mèo gây mê, alcaloid toàn phần của câu đằng với liều 200mg/kg hoặc hoạt chất rhynchophyllin với liều 20mg/kg tiêm tĩnh mạch cũng như trên chuột cống trắng gây cao huyết áp thực nghiệm, alcaloid toàn phần dùng bằng đường uống với liều 50mg/kg hoặc rhynchophyllin dùng tiêm phúc mạc với liều 20mg/kg đều thể hiện tác dụng hạ huyết áp rõ rệt.
Dạng chiết bằng ethanol từ câu đằng tiêm tĩnh mạch cho chuột cống trắng với liều 0,1mg/kg có tác dụng hạ huyết áp khá mạnh và kéo dài. Vị trí tác dụng của câu đằng trong cơ thể rất rộng, cơ chế hạ huyết áp của câu đằng có liên quan đến thần kinh trung ương, thần kinh ngoại vi và hệ tim mạch. Qua nghiên cứu huyết động học cho thấy tác dụng hạ huyết áp của câu đằng ở giai đoạn đầu chủ yếu là do trở kháng ngoại vi giảm, và tiếp sau đó là do lượng máu từ tim đẩy ra giảm. Nghiên cứu trên mèo và chó gây mê, chứng tỏ tác dụng của hoạt chất rhynchophyllin đối với huyết áp, nhịp tim và trở kháng ngoại vi đều giống như tác dụng của alcaloid toàn phần và đã chứng minh rằng tác dụng hạ huyết áp của rhynchophyllin là kết quả của công năng tim giảm với sự giãn mạch máu ngoại vi.
2. Tác dụng chống loạn nhịp tim: Alcaloid toàn phần của câu đằng tiêm tĩnh mạch cho chuột cống trắng với các liều 15mg/kg, 10mg/kg, 15mg/kg tương ứng với 3 mô hình rối loạn nhịp tim do aconitin, clorua calci clorua bari gây nên đều có tác dụng chống laonj nhịp tim rõ rệt.
3. Tác dụng an thần: Nước sắc câu đằng trên chuột nhắt trắng bằng đường tiêm phúc mạc với liều 0,1g/kg thể hiện tác dụng an thần rõ rệt nhưng không có tác dụng gây ngủ.
4. Tác dụng đối với hệ cơ trơn: Nước sắc câu đằng với nồng độ 17mg/kg có thể làm giảm trương lực của hồi trường cô lập chuột, đối kháng với tác dụng gây co bóp của histamin, alcaloid toàn phần của câu đằng bằng đường tiêm xoang bụng với liều 10mg/kg và bằng đường uống với liều 40mg/kg có tỷ lệ ức chế co thắt phế quản là 61,5% và 60% (P<0,01).
1.Tác dụng hạ huyết áp: Nước sắc câu đằng trên thỏ gây mê với liều 2 – 3g/kg tiêm tĩnh mạch, trên chó gây mê với liều 0,5g/kg tiêm tĩnh mạch và trên chuột cống trắng bằng đường uống với liều 5,0g/kg đều có tác dụng hạ huyết áp rõ rệt. Theo tập quán kinh nghiệm nhân dân thường dùng móc câu đằng làm thuốc, nhưng trên thực nghệm chứng tỏ tác dụng hạ huyết pá của cành và thân câu đằng không khác gì tác dụng của móc câu đằng. Trên mèo gây mê, alcaloid toàn phần của câu đằng với liều 200mg/kg hoặc hoạt chất rhynchophyllin với liều 20mg/kg tiêm tĩnh mạch cũng như trên chuột cống trắng gây cao huyết áp thực nghiệm, alcaloid toàn phần dùng bằng đường uống với liều 50mg/kg hoặc rhynchophyllin dùng tiêm phúc mạc với liều 20mg/kg đều thể hiện tác dụng hạ huyết áp rõ rệt.
Dạng chiết bằng ethanol từ câu đằng tiêm tĩnh mạch cho chuột cống trắng với liều 0,1mg/kg có tác dụng hạ huyết áp khá mạnh và kéo dài. Vị trí tác dụng của câu đằng trong cơ thể rất rộng, cơ chế hạ huyết áp của câu đằng có liên quan đến thần kinh trung ương, thần kinh ngoại vi và hệ tim mạch. Qua nghiên cứu huyết động học cho thấy tác dụng hạ huyết áp của câu đằng ở giai đoạn đầu chủ yếu là do trở kháng ngoại vi giảm, và tiếp sau đó là do lượng máu từ tim đẩy ra giảm. Nghiên cứu trên mèo và chó gây mê, chứng tỏ tác dụng của hoạt chất rhynchophyllin đối với huyết áp, nhịp tim và trở kháng ngoại vi đều giống như tác dụng của alcaloid toàn phần và đã chứng minh rằng tác dụng hạ huyết áp của rhynchophyllin là kết quả của công năng tim giảm với sự giãn mạch máu ngoại vi.
2. Tác dụng chống loạn nhịp tim: Alcaloid toàn phần của câu đằng tiêm tĩnh mạch cho chuột cống trắng với các liều 15mg/kg, 10mg/kg, 15mg/kg tương ứng với 3 mô hình rối loạn nhịp tim do aconitin, clorua calci clorua bari gây nên đều có tác dụng chống laonj nhịp tim rõ rệt.
3. Tác dụng an thần: Nước sắc câu đằng trên chuột nhắt trắng bằng đường tiêm phúc mạc với liều 0,1g/kg thể hiện tác dụng an thần rõ rệt nhưng không có tác dụng gây ngủ.
4. Tác dụng đối với hệ cơ trơn: Nước sắc câu đằng với nồng độ 17mg/kg có thể làm giảm trương lực của hồi trường cô lập chuột, đối kháng với tác dụng gây co bóp của histamin, alcaloid toàn phần của câu đằng bằng đường tiêm xoang bụng với liều 10mg/kg và bằng đường uống với liều 40mg/kg có tỷ lệ ức chế co thắt phế quản là 61,5% và 60% (P<0,01).
Công dụng
Câu đằng chữa kinh giật ở trẻ em, người lớn huyết áp cao, đau đầu, chóng mặt, trúng phong.
Liều dùng: 4,0 – 9,0g, sắc nước uống. Có thể dùng dạng bột.
Chú ý: Không nên sắc câu đằng quá lâu, đợi khi sắc các vị khác gần được mới cho câu đằng vào và để cho sôi 1 – 2 trào là được.
Câu đằng chữa kinh giật ở trẻ em, người lớn huyết áp cao, đau đầu, chóng mặt, trúng phong.
Liều dùng: 4,0 – 9,0g, sắc nước uống. Có thể dùng dạng bột.
Chú ý: Không nên sắc câu đằng quá lâu, đợi khi sắc các vị khác gần được mới cho câu đằng vào và để cho sôi 1 – 2 trào là được.
Theo sách "Cây thuốc và Động vật làm thuốc ở Việt Nam"