BÁ TỬ hay TRẮC BÁ (Biota orientalis (L.) Endl)
Tuệ Tĩnh Đường Hải Đức 8 Năm trước
Mô tả
Cây nhỏ, cao vài mét, phân nhánh nhiều. Tán lá hình tháp. Thân hơi vặn vẹo, có vỏ màu nâu đỏ hoặc nâu đen, nứt nẻ. Các cạnh dẹt mang lá xếp thành những mặt phẳng thẳng đứng, song song với thân rất đặc sắc. Lá mọc đối, dẹt, hình vẩy, màu lục sẫm ở cả hai mặt.
Hoa đơn tính cùng gốc; hoa đực hình đuôi sóc ở đầu cành nhỏ; hoa cái hình nón tròn mọc ở góc cành nhỏ, khi thành quả có đường kính 1,5 – 2cm, hình trứng hoặc gần hình cầu, bao bọc bởi nhiều lớp vảy dẹp màu lục pha lơ nhạt, mỏ quặp ra phía ngoài , chứa 2 hạt; hạt hình trứng, vỏ ngoài cứng nhẵn.
Mùa hoa quả: tháng 3 – 9.
Cây nhỏ, cao vài mét, phân nhánh nhiều. Tán lá hình tháp. Thân hơi vặn vẹo, có vỏ màu nâu đỏ hoặc nâu đen, nứt nẻ. Các cạnh dẹt mang lá xếp thành những mặt phẳng thẳng đứng, song song với thân rất đặc sắc. Lá mọc đối, dẹt, hình vẩy, màu lục sẫm ở cả hai mặt.
Hoa đơn tính cùng gốc; hoa đực hình đuôi sóc ở đầu cành nhỏ; hoa cái hình nón tròn mọc ở góc cành nhỏ, khi thành quả có đường kính 1,5 – 2cm, hình trứng hoặc gần hình cầu, bao bọc bởi nhiều lớp vảy dẹp màu lục pha lơ nhạt, mỏ quặp ra phía ngoài , chứa 2 hạt; hạt hình trứng, vỏ ngoài cứng nhẵn.
Mùa hoa quả: tháng 3 – 9.

Tác dụng dược lý
Cao methanol lá bá tử có hoạt tính ức chế in vitro các chủng vi khuẩn:Staphylococcus albus, phế cầu, trực khuẩn mủ xanh, phẩy khuẩn tả, và ức chế ở mức vừa các chủng vi khuẩn: Escherichia coli, Klebsiella aerogenes, tụ cầu vàng, liên cầu tan máu. Cao cồn lá có tác dụng có ý nghĩa đối với liên cầu tan máu và Staphylococcus albus. Cao aceton ức chế in vitro trực khuẩn mủ xanh và Klebsiella aerogenes. Tinh dầu bá tử có hoạt tính ức chế các chủng nấm: Trichophyton, Epidermophyton và Achorion. Lá và thân có hoạt tính kháng trực khuẩn thể in vitro, một biểu hiện của hoạt tính kháng siêu vi khuẩn hoặc kháng ung thư của thuốc, trong nghiên cứu sàng lọc ban đầu. Lá còn có tác dụng kháng Entamoeba moshkowskii ở nồng độ ức chế thấp nhất 1:16.
Lá bá tử sao vàng có tác dụng dãn mạch ngoại biên trong thử nghiệm trên mạch cô lập hoàn toàn, nhưng lại gây co mạch trong thử nghiệm mạch máu cô lập nhưng còn giữ lại dây thần kinh nối liền tai với cơ thể động vật; làm giảm thời gian Quick của máu, tức là làm tăng tỷ lệ prothrombin trong máu, giống như vitamin K, trong thử nghiệm in vitro trên thỏ và chó đã được tiêm thuốc chống đông máu trước đó. Lá bá tử cũng làm tăng nhịp độ và biên độ co bóp tử cung trong thử nghiệm in vitro và in vivo. Lá có hoạt tính chống oxy hóa yếu in vitro. Cao hạt bá tử chiết với nước nóng, ở nồng độ 0,5 x10-1mg/ml, có tác dụng ức chế aldose reductase là enzym gây tích lũy sorbitol trong tế bào. Aldose reductase có vai trò quan trọng trong bệnh sinh những biến chứng của đái tháo đường mạn tính như bệnh võng mạc, bệnh thần kinh và bệnh thận.
Cho chuột nhắt trắng uống bá tử (250 và 500mg/kg/ngày) từ ngày gây thương tổn amidan thực nghiệm đến cuối thí nghiệm. Ở chuột bị gây thương tổn amidan, có sự suy giảm nghiêm trọng của quá trình thu nhận và duy trì trí nhớ. Bá tử có tác dụng cải thiện sự suy giảm quá trình thu nhận của trí nhớ. Tuy vậy, nó không làm thay đổi sự duy trì trí nhớ, không ảnh hưởng đến hoạt độ của cholin acetyltransferase trong vỏ não, cấu tạo cá ngựa và dưới đồi, và những biến đổi bệnh lý vi mô gây bới tổn thương amidan. Như vậy, tác dụng của bá tử làm tăng sự thu nhận trí nhớ không do hoạt hóa sự dẫn truyền cholinergic trong những vùng này, cũng không do làm giảm thương tổn bệnh lý của vị trí bị thương tổn, mà do cơ chế khác chưa biết rõ.
Cao nước bá tử có tác dụng ức chế mạnh sự gắn của yếu tố hoạt hóa tiểu cầu và tiểu cầu ở thỏ. Hoạt chất acid pimisolidic trong lá và cành bá tử có hoạt tính ức chế sự gắn của yếu tố hoạt hóa tiểu cầu vào thụ thể của tiểu cầu thỏ in vitro. Trong một thử nghiệm lâm sàng, 66 bệnh nhân bị trĩ chảy máu đưuọc điều trị với bài thuốc gồm bá tử, hoa hòe, hoa kinh giới, chỉ xác, uống hàng ngày trong 7 ngày, kết quả cầm máu hoàn toàn ở 92,4% bệnh nhân, giảm chảy máu ở 4,6%, và không kết quả ở 3%. Ở 19,7% bệnh nhân, trĩ co nhỏ. Không có tác dụng phụ.
Cao methanol lá bá tử có hoạt tính ức chế in vitro các chủng vi khuẩn:Staphylococcus albus, phế cầu, trực khuẩn mủ xanh, phẩy khuẩn tả, và ức chế ở mức vừa các chủng vi khuẩn: Escherichia coli, Klebsiella aerogenes, tụ cầu vàng, liên cầu tan máu. Cao cồn lá có tác dụng có ý nghĩa đối với liên cầu tan máu và Staphylococcus albus. Cao aceton ức chế in vitro trực khuẩn mủ xanh và Klebsiella aerogenes. Tinh dầu bá tử có hoạt tính ức chế các chủng nấm: Trichophyton, Epidermophyton và Achorion. Lá và thân có hoạt tính kháng trực khuẩn thể in vitro, một biểu hiện của hoạt tính kháng siêu vi khuẩn hoặc kháng ung thư của thuốc, trong nghiên cứu sàng lọc ban đầu. Lá còn có tác dụng kháng Entamoeba moshkowskii ở nồng độ ức chế thấp nhất 1:16.
Lá bá tử sao vàng có tác dụng dãn mạch ngoại biên trong thử nghiệm trên mạch cô lập hoàn toàn, nhưng lại gây co mạch trong thử nghiệm mạch máu cô lập nhưng còn giữ lại dây thần kinh nối liền tai với cơ thể động vật; làm giảm thời gian Quick của máu, tức là làm tăng tỷ lệ prothrombin trong máu, giống như vitamin K, trong thử nghiệm in vitro trên thỏ và chó đã được tiêm thuốc chống đông máu trước đó. Lá bá tử cũng làm tăng nhịp độ và biên độ co bóp tử cung trong thử nghiệm in vitro và in vivo. Lá có hoạt tính chống oxy hóa yếu in vitro. Cao hạt bá tử chiết với nước nóng, ở nồng độ 0,5 x10-1mg/ml, có tác dụng ức chế aldose reductase là enzym gây tích lũy sorbitol trong tế bào. Aldose reductase có vai trò quan trọng trong bệnh sinh những biến chứng của đái tháo đường mạn tính như bệnh võng mạc, bệnh thần kinh và bệnh thận.
Cho chuột nhắt trắng uống bá tử (250 và 500mg/kg/ngày) từ ngày gây thương tổn amidan thực nghiệm đến cuối thí nghiệm. Ở chuột bị gây thương tổn amidan, có sự suy giảm nghiêm trọng của quá trình thu nhận và duy trì trí nhớ. Bá tử có tác dụng cải thiện sự suy giảm quá trình thu nhận của trí nhớ. Tuy vậy, nó không làm thay đổi sự duy trì trí nhớ, không ảnh hưởng đến hoạt độ của cholin acetyltransferase trong vỏ não, cấu tạo cá ngựa và dưới đồi, và những biến đổi bệnh lý vi mô gây bới tổn thương amidan. Như vậy, tác dụng của bá tử làm tăng sự thu nhận trí nhớ không do hoạt hóa sự dẫn truyền cholinergic trong những vùng này, cũng không do làm giảm thương tổn bệnh lý của vị trí bị thương tổn, mà do cơ chế khác chưa biết rõ.
Cao nước bá tử có tác dụng ức chế mạnh sự gắn của yếu tố hoạt hóa tiểu cầu và tiểu cầu ở thỏ. Hoạt chất acid pimisolidic trong lá và cành bá tử có hoạt tính ức chế sự gắn của yếu tố hoạt hóa tiểu cầu vào thụ thể của tiểu cầu thỏ in vitro. Trong một thử nghiệm lâm sàng, 66 bệnh nhân bị trĩ chảy máu đưuọc điều trị với bài thuốc gồm bá tử, hoa hòe, hoa kinh giới, chỉ xác, uống hàng ngày trong 7 ngày, kết quả cầm máu hoàn toàn ở 92,4% bệnh nhân, giảm chảy máu ở 4,6%, và không kết quả ở 3%. Ở 19,7% bệnh nhân, trĩ co nhỏ. Không có tác dụng phụ.

Công dụng
Bá tử diệp chữa ho ra máu, đại tiểu tiện ra máu, chảy máu cam, tử cung xuất huyết, rong kinh. Còn dùng làm thuốc lợi tiể, chữa ho, sốt.
Bá tử nhân được dùng chữa hồi hộp, mất ngủ, hay quên, người yếu ra nhiều mồ hôi, táo bón, kinh giản, trẻ con khóc đêm, bụng đầy, đi ngoài phân xanh.
Liều dùng hàng ngày: 6- 12g đối với bá tử diệp; 4 – 12g đối với bá tử nhân.
Bá tử diệp sao đen 10 – 20g sắc uống làm thuốc cầm máu. Phối hợp với lá ngải cứu, buồng cau điếc hoặc vỏ cam và bạc hà chữa băng huyết, rong huyết; với lá huyết dụ, thài lài tía, rễ rẻ quạt chữa ho ra máu; với lá sen, ngó sen, sinh địa, ngải cứu chữa nôn ra máu, chảy máu cam. Liều lượng của những vị dùng phối hợp là 8 – 16g. Để chữa ho, lấy bá tử diệp sao, sắc uống cùng rễ chanh, hoặc tầm gửi cây dâu với liều lượng bằng nhau. Dùng ngoài, bá tử diệp tươi rửa sạch, nhai với muối, ngậm chữa đau nhức răng, sâu răng. Bá tử diệp phơi khô phối hợp với rễ cây vừng đen, nấu cao đặc, bôi hàng ngày làm thuốc mọc tóc. Bá tử nhân có thể sắc uống cùng với nhân hạt táo, long nhãn, hạt sen (liều lượng bằng nhau) làm thuốc an thần, nhuận táo.
Trong y học Trung Quốc, bá tử nhân được dùng uống làm thuốc bổ, và long đờm trị viêm phế quản và hen phế quản. Lá còn được dùng làm săn và cầm máu, chảy máu ruột, tử cung và lỵ. Nhựa thân bá tử trộn với nhựa thông đắp để tiêu u. Trong y học Ấn Độ, những nhánh nhỏ của cây bá tử là thuốc kích ứng tại chỗ. Khi giã nát cành cây, dịch từ cành gây ban trên bàn tay và mặt. Tinh dầu từ lá được dùng làm thuốc bổ, lợi tiểu và hạ sốt.
Bá tử diệp chữa ho ra máu, đại tiểu tiện ra máu, chảy máu cam, tử cung xuất huyết, rong kinh. Còn dùng làm thuốc lợi tiể, chữa ho, sốt.
Bá tử nhân được dùng chữa hồi hộp, mất ngủ, hay quên, người yếu ra nhiều mồ hôi, táo bón, kinh giản, trẻ con khóc đêm, bụng đầy, đi ngoài phân xanh.
Liều dùng hàng ngày: 6- 12g đối với bá tử diệp; 4 – 12g đối với bá tử nhân.
Bá tử diệp sao đen 10 – 20g sắc uống làm thuốc cầm máu. Phối hợp với lá ngải cứu, buồng cau điếc hoặc vỏ cam và bạc hà chữa băng huyết, rong huyết; với lá huyết dụ, thài lài tía, rễ rẻ quạt chữa ho ra máu; với lá sen, ngó sen, sinh địa, ngải cứu chữa nôn ra máu, chảy máu cam. Liều lượng của những vị dùng phối hợp là 8 – 16g. Để chữa ho, lấy bá tử diệp sao, sắc uống cùng rễ chanh, hoặc tầm gửi cây dâu với liều lượng bằng nhau. Dùng ngoài, bá tử diệp tươi rửa sạch, nhai với muối, ngậm chữa đau nhức răng, sâu răng. Bá tử diệp phơi khô phối hợp với rễ cây vừng đen, nấu cao đặc, bôi hàng ngày làm thuốc mọc tóc. Bá tử nhân có thể sắc uống cùng với nhân hạt táo, long nhãn, hạt sen (liều lượng bằng nhau) làm thuốc an thần, nhuận táo.
Trong y học Trung Quốc, bá tử nhân được dùng uống làm thuốc bổ, và long đờm trị viêm phế quản và hen phế quản. Lá còn được dùng làm săn và cầm máu, chảy máu ruột, tử cung và lỵ. Nhựa thân bá tử trộn với nhựa thông đắp để tiêu u. Trong y học Ấn Độ, những nhánh nhỏ của cây bá tử là thuốc kích ứng tại chỗ. Khi giã nát cành cây, dịch từ cành gây ban trên bàn tay và mặt. Tinh dầu từ lá được dùng làm thuốc bổ, lợi tiểu và hạ sốt.
Theo sách "Cây thuốc và Động vật làm thuốc ở Việt Nam"