BẠCH HOA XÀ (Plumbago zeylanica L)
Tuệ Tĩnh Đường Hải Đức 8 Năm trước
Mô tả
Cây thảo, cao 50 – 70cm. Thân hóa gỗ ít hay nhiều, khúc khuỷu, có khía dọc rất mảnh và có đốt rõ. Lá mọc so le, hình trứng hay bầu dục thuôn, gốc gần bằng, đầu nhọn, mép lượn sóng, mặt trên màu lục sẫm bóng, mặt dưới trắng nhạt; cuống lá như ôm vào thân.
Cụm hoa mọc thành chùm bông ở ngọn gồm nhiều hoa màu trắng; lá bắc thuôn nhọn, ngắn hơn đài hoa; đài hình trụ có cạnh rõ phủ đầy lông tuyến dính; phía trên xẻ 5 thùy rất rõ; tràng hoa hình điinh; ống rất hẹp, dài gấp đôi đài, 5 cánh hình trứng ngược, đầu có mũi nhọn; nhị 5, chỉ nhị hình chỉ, bao phấn thuôn màu vàng, bầu có vòi nhụy dài và rất mảnh, đầu nhụy xẻ 5 nhánh.
Quả thường lép.
Mùa hoa quả gần như quanh năm, nhưng chủ yếu vào tháng 5 – 6.
Cây thảo, cao 50 – 70cm. Thân hóa gỗ ít hay nhiều, khúc khuỷu, có khía dọc rất mảnh và có đốt rõ. Lá mọc so le, hình trứng hay bầu dục thuôn, gốc gần bằng, đầu nhọn, mép lượn sóng, mặt trên màu lục sẫm bóng, mặt dưới trắng nhạt; cuống lá như ôm vào thân.
Cụm hoa mọc thành chùm bông ở ngọn gồm nhiều hoa màu trắng; lá bắc thuôn nhọn, ngắn hơn đài hoa; đài hình trụ có cạnh rõ phủ đầy lông tuyến dính; phía trên xẻ 5 thùy rất rõ; tràng hoa hình điinh; ống rất hẹp, dài gấp đôi đài, 5 cánh hình trứng ngược, đầu có mũi nhọn; nhị 5, chỉ nhị hình chỉ, bao phấn thuôn màu vàng, bầu có vòi nhụy dài và rất mảnh, đầu nhụy xẻ 5 nhánh.
Quả thường lép.
Mùa hoa quả gần như quanh năm, nhưng chủ yếu vào tháng 5 – 6.

Tác dụng dược lý
Bạch hoa xà (dịch chiết hoặc hoạt chất plumbagin) có những tác dụng dược lý sau:
- Tác dụng kháng khuẩn đối với các chủng:
Staphylococcus aureus, Bacillus anthracis, Proteus mirabilis, Shigella flexneri, Enterobacter cloaceae, Salmonella typhi, S.paratyphi, Pseudomonas aeruginosa, Klebsiella aerogenes, K.pneumoniae, Escherichia coli, Neisseria gonorrhoea, Bacillus cereus, B.pumilis, Staphylococcus citreus, Salmonella dublin, Mycobacterium phlei.
- Tác dụng chống viêm.
- Trong nhiễm độc diclor diethyl sulfid liều thấp trên thực nghiệm, có khả năng làm giảm đáng kể các rối loạn vi tuần hoàn; các tổn thương ở gan thận do nhiễm độc giảm đi sau 30 ngày điều trị với chiết phẩm bạch hoa xà.
- Tác dụng gây sung huyết da, làm phỏng rộp da, được áp dụng tại chỗ để thúc đẻ, tác dụng lợi tiểu và ra mồ hôi.
- Tác dụng chống sinh sản, tránh sự làm tổ của trứng đã thụ tinh và gây sẩy thai ở chuột cống trắng, và ức chế sự rụng trứng ở thỏ, gây những thương tổn một cách chọn lọc của tinh hoàn ở chó.
- Tác dụng chống đông máu ở chuột cống trắng.
- Tác dụng trị hột cơm, mụn cóc.
- Tác dụng trị lang ben lúc bắt đầu trị bệnh và trị hói đầu.
- Tác dụng chống u, chống sarcom sợi gây bằng methyl cholanthren ở chuột cống trắng và chống bệnh bạch cầu lympho P388 thực nghiệm.
- Hoạt tính chống nấm đối với Entomophthora floccosum, Metarrhizim nana, Penicillium canadense, P.notatum, Rhinotrichum nigricans.
- Tác dụng chống peroxy hóa lipid in vitro và in vivo trên chuột nhắt trắng.
- Tác dụng diệt nhiều loại sinh vật độc hại: Acalymma vittata, Achaea janata, Mythimma separata, Corcyra cephalonica, Dysdercus koenigii, Heliothis virescens, Heliothis zea, Dysdercus cingulatus, Pectinophora gosypiella. Spilosoma obliqua, Trichoplusia ni.
Bạch hoa xà (dịch chiết hoặc hoạt chất plumbagin) có những tác dụng dược lý sau:
- Tác dụng kháng khuẩn đối với các chủng:
Staphylococcus aureus, Bacillus anthracis, Proteus mirabilis, Shigella flexneri, Enterobacter cloaceae, Salmonella typhi, S.paratyphi, Pseudomonas aeruginosa, Klebsiella aerogenes, K.pneumoniae, Escherichia coli, Neisseria gonorrhoea, Bacillus cereus, B.pumilis, Staphylococcus citreus, Salmonella dublin, Mycobacterium phlei.
- Tác dụng chống viêm.
- Trong nhiễm độc diclor diethyl sulfid liều thấp trên thực nghiệm, có khả năng làm giảm đáng kể các rối loạn vi tuần hoàn; các tổn thương ở gan thận do nhiễm độc giảm đi sau 30 ngày điều trị với chiết phẩm bạch hoa xà.
- Tác dụng gây sung huyết da, làm phỏng rộp da, được áp dụng tại chỗ để thúc đẻ, tác dụng lợi tiểu và ra mồ hôi.
- Tác dụng chống sinh sản, tránh sự làm tổ của trứng đã thụ tinh và gây sẩy thai ở chuột cống trắng, và ức chế sự rụng trứng ở thỏ, gây những thương tổn một cách chọn lọc của tinh hoàn ở chó.
- Tác dụng chống đông máu ở chuột cống trắng.
- Tác dụng trị hột cơm, mụn cóc.
- Tác dụng trị lang ben lúc bắt đầu trị bệnh và trị hói đầu.
- Tác dụng chống u, chống sarcom sợi gây bằng methyl cholanthren ở chuột cống trắng và chống bệnh bạch cầu lympho P388 thực nghiệm.
- Hoạt tính chống nấm đối với Entomophthora floccosum, Metarrhizim nana, Penicillium canadense, P.notatum, Rhinotrichum nigricans.
- Tác dụng chống peroxy hóa lipid in vitro và in vivo trên chuột nhắt trắng.
- Tác dụng diệt nhiều loại sinh vật độc hại: Acalymma vittata, Achaea janata, Mythimma separata, Corcyra cephalonica, Dysdercus koenigii, Heliothis virescens, Heliothis zea, Dysdercus cingulatus, Pectinophora gosypiella. Spilosoma obliqua, Trichoplusia ni.

Công dụng
Lá sao vàng sắc uống trừ hàn lãnh, huyệt ứ của sản phụ. Theo lĩnh nam bản thảo của Hải Thượng Lãn Ông, bạch hoa xà có công dụng giải thuốc độc, chữa trúng phong bại liệt méo mồm, phong hủi, lở ngứa, mụn nhọt.
Dùng ngoài, chữa đinh nhọt, tràng nhạc, snwg vú (dùng lá, rễ tươi giã nát đắp).
Chữa hắc lào, ghẻ lở (rễ tươi rửa sạch giã nhỏ, phơi trong râm, ngâm rượu 70º bôi).
Chữa chai chân đau không đi được (rễ tươi rửa sạch giã đắp, sau 2 giờ bỏ ra).
Nhân dân thường dùng rễ hay lá tươi giã nhỏ với cơm thành một thứ bột nhão, đắp lên những chỗ sưng đau. Có nơi người ta sắc rễ lấy ngước bôi ghẻ, dùng lá bạch hoa xà giã nát đắp lên đầu chốc lở đã rửa sạch đến khi thấy nóng thì bỏ ra.
Lá sao vàng sắc uống trừ hàn lãnh, huyệt ứ của sản phụ. Theo lĩnh nam bản thảo của Hải Thượng Lãn Ông, bạch hoa xà có công dụng giải thuốc độc, chữa trúng phong bại liệt méo mồm, phong hủi, lở ngứa, mụn nhọt.
Dùng ngoài, chữa đinh nhọt, tràng nhạc, snwg vú (dùng lá, rễ tươi giã nát đắp).
Chữa hắc lào, ghẻ lở (rễ tươi rửa sạch giã nhỏ, phơi trong râm, ngâm rượu 70º bôi).
Chữa chai chân đau không đi được (rễ tươi rửa sạch giã đắp, sau 2 giờ bỏ ra).
Nhân dân thường dùng rễ hay lá tươi giã nhỏ với cơm thành một thứ bột nhão, đắp lên những chỗ sưng đau. Có nơi người ta sắc rễ lấy ngước bôi ghẻ, dùng lá bạch hoa xà giã nát đắp lên đầu chốc lở đã rửa sạch đến khi thấy nóng thì bỏ ra.
Theo sách "Cây thuốc và Động vật làm thuốc ở Việt Nam"