BẠCH LINH (Poria cocos Wolf)
Tuệ Tĩnh Đường Hải Đức 8 Năm trước
Mô tả
Loại nấm ký sinh hoặc hoại sinh trên rễ cây thông (thường gặp ở một số loài như Pinus massoniana Lamb, P. densiflora Sieb. Et Zucc, P. yunnanensis Franch, P. thunbergii Parl). Nấm có hình khối to nhỏ không đều, to có thể nặng đến 5 kg, nhỏ cũng bằng nắm tay. Mặt ngoài vỏ màu nâu đen, sần sùi, có khi nổi bướu, mặt cắt lổn nhổn chứa chất bột gồm các khẩn ty, bào tử, cuống đảm tử. Loại có mặt cắt màu trắng gọi là bạch phục linh hay bạch linh; loại hồng xám là xích phục linh hay xích linh; loại rễ thông xuyên vào giữa gọi là phục thần.
Loại nấm ký sinh hoặc hoại sinh trên rễ cây thông (thường gặp ở một số loài như Pinus massoniana Lamb, P. densiflora Sieb. Et Zucc, P. yunnanensis Franch, P. thunbergii Parl). Nấm có hình khối to nhỏ không đều, to có thể nặng đến 5 kg, nhỏ cũng bằng nắm tay. Mặt ngoài vỏ màu nâu đen, sần sùi, có khi nổi bướu, mặt cắt lổn nhổn chứa chất bột gồm các khẩn ty, bào tử, cuống đảm tử. Loại có mặt cắt màu trắng gọi là bạch phục linh hay bạch linh; loại hồng xám là xích phục linh hay xích linh; loại rễ thông xuyên vào giữa gọi là phục thần.

Tác dụng dược lý
1. Tác dụng lợi tiểu ở thỏ: Năm ngày đầu cho thỏ ăn bình thường và thêm đậu đen, đồng thời cho uống mỗi ngày mỗi con thỏ 200ml nước. Theo dõi nước tiểu thải ra hàng ngày. Loại bỏ những con quá bất thường. Đến ngày thứ sáu, ở lô thử thuốc, tiêm dịch chiết bạch linh 1:4 (ngâm 1kg bột bạch linh với 5 lít cồn 70º trong 48 giờ. Lọc, thu hồi cồn, rồi thêm nước cất vừa đủ 4 lít) liều 2ml/kg/ngày, liền 5 ngày. Lô đối chiếu dùng theophylin và lô đối chứng thay dịch chiết bạch linh bằng NaCl 0,9% với cùng thể tích. Theo dõi lượng nước tiểu từng ngày trong 5 ngày dùng thuốc và 5 ngày tiếp sau đó. Kết quả cho thấy bạch linh có tác dụng lợi tiểu rõ rệt so với lô đối chứng. Cũng có thí nghiệm cho thấy tác dụng lợi tiểu của bạch linh không thật rõ. Thực tế thì vỏ ngoài của bạch linh gọi là bạch linh bì có tác dụng lợi tiểu mạnh hơn bạch linh không có vỏ ngoài.
2. Tác dụng chống nôn: Các hợp chất triterpen phân lập từ bạch linh có tác dụng chống nôn ở ếch, dùng phương pháp gây nôn bằng sulfat đồng. Acid pachymic, một chất chiếm hàm lượng cao trong bạch linh là hợp chất triterpen thuộc nhóm lanosta-8-en, là một trong những chất có tác dụng chống nôn. Nghiên cứu sự liên quan giữa cấu trúc hóa học và tác dụng sinh học của các triterpen bạch linh thấy sự có mặt của nhóm bên ngoài methylen ở vị trí carbon 24 có ý nghĩa với tác dụng chống nôn.
3. Tác dụng kháng khuẩn: Nước sắc bạch linh có tác dụng ức chế sự phát triển của các vi khuẩn Staphylococcus aureus, Enterococcus và Bacillus subtilis. Dịch chiết cồn của bạch linh còn có tác dụng trên xoắn khuẩn Spirochaeta.
4. Tác dụng hướng sinh dục nữ: của bài thuốc cổ phương chữa đau khi hành kinh, đa kinh, vô sinh ở phụ nữ gồm bạch linh, bạch thược, mẫu đơn bì, đào nhân, nhục quế. Khi dùng bài thuốc này cho chuột cống trắng cái với liều 300mg/kg, liền 14 ngày thấy hormon hướng hoàn thể LH (luteinizing hormone) giảm 94%, hormon kích thích nang trứng FSH (folicle-stimulating hormone) giảm 67%, estradiol giảm 50%, trọng lượng tử cung (cân tươi) giảm 65%, thymidine kinase (TK) giảm 64%. Một nghiên cứu khác, tiêm dưới da cho chuột cống trắng cái estradiol liều 1µg/kg, sau 30 giờ trọng lượng tử cung tăng 2,4 lần còn TK tăng 21 lần. Nếu sau khi tiêm estradiol, dùng thuốc 3 lần liên tiếp cách nhau 12 giờ liều 300mg/kg, sự tăng trọng lượng tử cung giảm 29% và TK giảm 39%. Những nghiên cứu trên chứng tỏ bài thuốc có tác dụng đối kháng LH và FSH, đồng thời có tác dụng kháng estrogen yếu.
5. Thử lâm sàng chữa phù: dùng bạch linh, tán bột, chế thành viên có 30% bạch linh chữa cho 30 bệnh nhân bị phù (20 ca phù không đặc hiệu, 10 ca phù do tim và thận). Người lớn mỗi lần dùng 8 viên (mỗi viên 3,5g, tương đương 1g bạch linh), ngày 3 lần, trẻ em dùng liều bằng nữa người lớn, uống liền 7 ngày, không dùng thuốc lợi tiểu nào khác. Kết quả tốt 23 ca, 7 ca phù có giảm, trong đó phù do bệnh tim và thận, rút nhanh hơn.
6. Thử lâm sàng tiêu chảy kéo dài: dùng bột bạch linh chữa cho 93 ca, mỗi lần 0,5-1g, ngày 3 lần. Kết quả khỏi 79 ca, khá 8 ca, không kết quả 6 ca. So với lô dùng thuốc tây y (pepsin và vitamin B1), thời gian khỏi bệnh do dùng bạch linh ngắn hơn.
7. Thử lâm sàng chữa ung thư: chiết lấy polysaccharid của bạch linh chữa cho 70 ca ung thư các loại, trong đó có một số ca kết hợp xạ trị, hóa trị và phẫu trị. Lô dùng polysaccharid có tác dụng tăng sức, tăng trọng, giúp ăn ngon hơn, nâng chức năng miễn dịch, bảo vệ tủy xương, làm giảm phản ứng phụ, cải thiện chức năng gan thận, tăng hiệu quả xạ trị đối với ung thư vòm họng.
8. Thử lâm sàng làm tăng thị lực của bài thuốc “minh mục” gồm bạch linh, thục địa, hoài sơn, đan bì, trạch tả, đương quy, sài hồ mỗi vị 12g, sơn thù 8g; ngũ vị tử 4g. Dùng dạng thuốc sắc hoặc thuốc viên, mỗi ngày 25-40g cho 60 bệnh nhân viêm hắc võng mạc trung tâm. Giai đoạn đầu, thị lực tăng 5/10 đến 10/10 là 13 ca (21,7%), tăng 1/10 đến 5/10 là 36 ca (60%), không tiến triển 11 ca (18,3%), không có trường hợp giảm thị lực. Điều trị cho 205 bệnh nhân viêm hắc võng mạc trung tâm giai đoạn sau, thị lực tăng 5/10 đến 10/10 là 38 ca (18,5%); 1/10 đến 5/10 là 123 ca (60%), không kết quả 44 ca (21,5%), cũng không có trường hợp giảm thị lực.
Tài liệu Trung Quốc còn nghiên cứu bạch linh có tác dụng tăng cường miễn dịch, làm tăng cường miễn dịch, làm tăng chỉ số thực bào ở chuột cống trắng, có tác dụng an thần, chống loét dạ dày, hạ đường huyết và có tác dụng bảo vệ gan.
1. Tác dụng lợi tiểu ở thỏ: Năm ngày đầu cho thỏ ăn bình thường và thêm đậu đen, đồng thời cho uống mỗi ngày mỗi con thỏ 200ml nước. Theo dõi nước tiểu thải ra hàng ngày. Loại bỏ những con quá bất thường. Đến ngày thứ sáu, ở lô thử thuốc, tiêm dịch chiết bạch linh 1:4 (ngâm 1kg bột bạch linh với 5 lít cồn 70º trong 48 giờ. Lọc, thu hồi cồn, rồi thêm nước cất vừa đủ 4 lít) liều 2ml/kg/ngày, liền 5 ngày. Lô đối chiếu dùng theophylin và lô đối chứng thay dịch chiết bạch linh bằng NaCl 0,9% với cùng thể tích. Theo dõi lượng nước tiểu từng ngày trong 5 ngày dùng thuốc và 5 ngày tiếp sau đó. Kết quả cho thấy bạch linh có tác dụng lợi tiểu rõ rệt so với lô đối chứng. Cũng có thí nghiệm cho thấy tác dụng lợi tiểu của bạch linh không thật rõ. Thực tế thì vỏ ngoài của bạch linh gọi là bạch linh bì có tác dụng lợi tiểu mạnh hơn bạch linh không có vỏ ngoài.
2. Tác dụng chống nôn: Các hợp chất triterpen phân lập từ bạch linh có tác dụng chống nôn ở ếch, dùng phương pháp gây nôn bằng sulfat đồng. Acid pachymic, một chất chiếm hàm lượng cao trong bạch linh là hợp chất triterpen thuộc nhóm lanosta-8-en, là một trong những chất có tác dụng chống nôn. Nghiên cứu sự liên quan giữa cấu trúc hóa học và tác dụng sinh học của các triterpen bạch linh thấy sự có mặt của nhóm bên ngoài methylen ở vị trí carbon 24 có ý nghĩa với tác dụng chống nôn.
3. Tác dụng kháng khuẩn: Nước sắc bạch linh có tác dụng ức chế sự phát triển của các vi khuẩn Staphylococcus aureus, Enterococcus và Bacillus subtilis. Dịch chiết cồn của bạch linh còn có tác dụng trên xoắn khuẩn Spirochaeta.
4. Tác dụng hướng sinh dục nữ: của bài thuốc cổ phương chữa đau khi hành kinh, đa kinh, vô sinh ở phụ nữ gồm bạch linh, bạch thược, mẫu đơn bì, đào nhân, nhục quế. Khi dùng bài thuốc này cho chuột cống trắng cái với liều 300mg/kg, liền 14 ngày thấy hormon hướng hoàn thể LH (luteinizing hormone) giảm 94%, hormon kích thích nang trứng FSH (folicle-stimulating hormone) giảm 67%, estradiol giảm 50%, trọng lượng tử cung (cân tươi) giảm 65%, thymidine kinase (TK) giảm 64%. Một nghiên cứu khác, tiêm dưới da cho chuột cống trắng cái estradiol liều 1µg/kg, sau 30 giờ trọng lượng tử cung tăng 2,4 lần còn TK tăng 21 lần. Nếu sau khi tiêm estradiol, dùng thuốc 3 lần liên tiếp cách nhau 12 giờ liều 300mg/kg, sự tăng trọng lượng tử cung giảm 29% và TK giảm 39%. Những nghiên cứu trên chứng tỏ bài thuốc có tác dụng đối kháng LH và FSH, đồng thời có tác dụng kháng estrogen yếu.
5. Thử lâm sàng chữa phù: dùng bạch linh, tán bột, chế thành viên có 30% bạch linh chữa cho 30 bệnh nhân bị phù (20 ca phù không đặc hiệu, 10 ca phù do tim và thận). Người lớn mỗi lần dùng 8 viên (mỗi viên 3,5g, tương đương 1g bạch linh), ngày 3 lần, trẻ em dùng liều bằng nữa người lớn, uống liền 7 ngày, không dùng thuốc lợi tiểu nào khác. Kết quả tốt 23 ca, 7 ca phù có giảm, trong đó phù do bệnh tim và thận, rút nhanh hơn.
6. Thử lâm sàng tiêu chảy kéo dài: dùng bột bạch linh chữa cho 93 ca, mỗi lần 0,5-1g, ngày 3 lần. Kết quả khỏi 79 ca, khá 8 ca, không kết quả 6 ca. So với lô dùng thuốc tây y (pepsin và vitamin B1), thời gian khỏi bệnh do dùng bạch linh ngắn hơn.
7. Thử lâm sàng chữa ung thư: chiết lấy polysaccharid của bạch linh chữa cho 70 ca ung thư các loại, trong đó có một số ca kết hợp xạ trị, hóa trị và phẫu trị. Lô dùng polysaccharid có tác dụng tăng sức, tăng trọng, giúp ăn ngon hơn, nâng chức năng miễn dịch, bảo vệ tủy xương, làm giảm phản ứng phụ, cải thiện chức năng gan thận, tăng hiệu quả xạ trị đối với ung thư vòm họng.
8. Thử lâm sàng làm tăng thị lực của bài thuốc “minh mục” gồm bạch linh, thục địa, hoài sơn, đan bì, trạch tả, đương quy, sài hồ mỗi vị 12g, sơn thù 8g; ngũ vị tử 4g. Dùng dạng thuốc sắc hoặc thuốc viên, mỗi ngày 25-40g cho 60 bệnh nhân viêm hắc võng mạc trung tâm. Giai đoạn đầu, thị lực tăng 5/10 đến 10/10 là 13 ca (21,7%), tăng 1/10 đến 5/10 là 36 ca (60%), không tiến triển 11 ca (18,3%), không có trường hợp giảm thị lực. Điều trị cho 205 bệnh nhân viêm hắc võng mạc trung tâm giai đoạn sau, thị lực tăng 5/10 đến 10/10 là 38 ca (18,5%); 1/10 đến 5/10 là 123 ca (60%), không kết quả 44 ca (21,5%), cũng không có trường hợp giảm thị lực.
Tài liệu Trung Quốc còn nghiên cứu bạch linh có tác dụng tăng cường miễn dịch, làm tăng cường miễn dịch, làm tăng chỉ số thực bào ở chuột cống trắng, có tác dụng an thần, chống loét dạ dày, hạ đường huyết và có tác dụng bảo vệ gan.

Công dụng
Bạch linh được dùng làm thuốc bổ chữa suy nhược, chóng mặt, di mộng tinh; lợi tiểu chữa phù thũng, bụng đầy trướng, tiêu chảy, tỳ hư, ăn kém; an thần, trấn tĩnh, chữa mất ngủ. Ngày dùng 4-20g dạng thuốc sắc, thuốc bột hoặc thuốc viên. Dùng riêng hoặc phối hợp với các thuốc khác.
Mỗi bộ phận của bạch linh đều có tác dụng riêng biệt:
- Bạch linh bì có tác dụng ưu tiên về lợi tiểu, tiêu thũng, chống phù.
- Xích phục linh hoặc xích linh có tác dụng chính là hành thủy, lợi thấp nhiệt.
- Bạch phục linh hoặc bạch linh, ngoài có tác dụng lợi thủy trừ thấp, còn có tác dụng bổ tỳ vị chữa bụng đầy trướng, tiêu chảy, tỳ hư, kém ăn và thuốc bổ toàn thân chữa suy nhược, hoa mắt, chóng mặt, di mộng tinh. Bạch linh cũng có tác dụng an thần.
- Phục thần có tác dụng an thần, chữa sợ hãi, hồi hộp, mất, sầu uất, đần độn, mất trí, tinh thần bạc nhược. Liều dùng ngày 12g, thường phối hợp với viễn chí, xương bồ, mỗi vị 8g.
Bạch linh được dùng làm thuốc bổ chữa suy nhược, chóng mặt, di mộng tinh; lợi tiểu chữa phù thũng, bụng đầy trướng, tiêu chảy, tỳ hư, ăn kém; an thần, trấn tĩnh, chữa mất ngủ. Ngày dùng 4-20g dạng thuốc sắc, thuốc bột hoặc thuốc viên. Dùng riêng hoặc phối hợp với các thuốc khác.
Mỗi bộ phận của bạch linh đều có tác dụng riêng biệt:
- Bạch linh bì có tác dụng ưu tiên về lợi tiểu, tiêu thũng, chống phù.
- Xích phục linh hoặc xích linh có tác dụng chính là hành thủy, lợi thấp nhiệt.
- Bạch phục linh hoặc bạch linh, ngoài có tác dụng lợi thủy trừ thấp, còn có tác dụng bổ tỳ vị chữa bụng đầy trướng, tiêu chảy, tỳ hư, kém ăn và thuốc bổ toàn thân chữa suy nhược, hoa mắt, chóng mặt, di mộng tinh. Bạch linh cũng có tác dụng an thần.
- Phục thần có tác dụng an thần, chữa sợ hãi, hồi hộp, mất, sầu uất, đần độn, mất trí, tinh thần bạc nhược. Liều dùng ngày 12g, thường phối hợp với viễn chí, xương bồ, mỗi vị 8g.

Theo sách "Cây thuốc và Động vật làm thuốc ở Việt Nam"